Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

Diễn Nôm bài Tây Sơn hành



Tây Sơn hành, bài thơ chữ Hán miêu tả trần trụi cuộc giao hoan giữa Quang Trung và công chúa Ngọc Hân qua trí tưởng tượng của triều thần nhà Lê - Trần Danh Án, có thể coi là bài thơ dâm bạo dạn nhất trong văn học sử Việt Nam. (Tôi dịch trên cơ sở Tín và Đạt. Nhã hay không còn tùy ở từng câu, từng từ trong nguyên tác). (Việt) Trần Danh Án - Tản ông di tập (Ký hiệu A.2157, Thư viện Viện Hán Nôm)

Nước thanh bình hai trăm năm cũ  海 宇 承 平 二 百 年
Chốn thâm cung xuân khóa trăng rằm  深 宮 春 色 鎖 嬋 娟
Lẻ loi chăn gấm mền hồng  嫣 紅 錦 褥 人 眼 獨
Một tà áo thúy mơ mòng bướm hoa  淺 翠 花 裀 蝶 夢 纏
Âu cũng khách quần thoa dan díu  不 是 神 仙 無 對 偶
Cảnh xinh tươi chợt níu lòng thơ  可 堪 芳 景 忽 流 連
Song the mai tuyết ngẩn ngơ  紗 窗 寂 寞 梅 酣 雪
Vườn thăm thẳm lối, liễu mờ mịt sương  邃 篽 離 披 柳 困 煙
Hoa rệu rạc, màu xuân đã tếch  花 事 闌 珊 春 已 矣
Cánh phôi phai, dạ khách xót xa  殘 英 落 絮 總 堪 憐
Thùng thùng trống giục ải xa  鼕 鼕 何 處 城 邊 鼓
Nghẽn đường rợ mọi, bụi lòa Tràng An  羯 塵 漫 塞 長 安 路
Mới chớm hạ, gió toan bứt lá  亟 夏 方 旋 振 葉 風
Hẵng còn xuân, mưa đã giục cành  深 春 忽 點 催 花 雨
Mày râu mất vía giữ thành  鬚 眉 無 膽 控 危 城
Để cho má phấn gán mình giặc ngông.  釵 扇 將 身 抵 驕 虜
Con Thiên tử, Thượng Công phi thiếp  天 王 姊 婦 上 公 妃
Lọ chúa hoa đeo kiếp tầm thường  不 比 尋 常 花 巷 主
Tôn sùng dòng dõi đế vương  尊 榮 貴 寵 對 天 潢
Mang theo sính lễ dọn đường vu quy  奠 聘 奩 儀 優 特 數
Xanh gấm vóc, ngựa xe mây nước  雲 水 騶 從 翠 綺 羅
Thắm cân đai, đội rước phong lưu  風 流 儐 相 紛 紳 冑
Lạ lùng phu kiệu, đứa hầu  扇 夫 轎 子 儘 非 常
Con dân Kẻ Chợ thấy đều gọi Cha  都 人 見 者 呼 為 父
Người hâm mộ, xuýt xoa như một  人 羡 新 郎 如 一 口
Thiếp trông chàng buông tuột đôi tay  妾 見 新 郎 墜 雙 手
Áo lòe loẹt, giọng lạ đời  衣 裳 熳 爛 語 侏 离
Nếp da nhăn nhúm, khổ người ngông nghênh  骨 相 崚 嶒 皮 皺 古
Cao trên thóp vấn khăn Trương Giác  頂 上 高 堆 張 角 巾
Giữa hai chân không khố Hàn sinh  腿 間 不 著 韓 信 褲
Bên trong một vật tày đình  其 中 一 物 望 巍 然
Chân tay gộp lại, chềnh ềnh ngũ chi   直 與 四 肢 峙 為 五
Khi lặng nhác ông sư nhập định  靜 似 高 僧 兀 坐 忘
Lúc động như anh lính múa may  動 如 弁 子 歌 身 舞
Lầm lì chẳng nói chẳng cười  不 言 不 笑 不 溫 存
Gầm vang một tiếng rặt hơi beo hùm  大 吼 一 聲 烈 如 虎
Nghìn cân nặng xổm chồm ngực sữa  千 鈞 飛 蹲 據 酥 胸
Xé váy là tốc giở đùi non  怒 裂 羅 裙 披 雪 股
Thọc người, thứ ấy rành đòn  此 物 誰 知 解 刺 人
Đâm vào thẳng ngắc cửa son ấm mềm  頡 頏 插 入 溫 柔 戶
Tót trên cành, oanh rần búp nõn  嬌 花 枝 上 狂 鶯 揉
Cái oanh cuồng lọ biết thương hoa  狂 鶯 不 為 嬌 花 護
Màng hoa lụa xé xác xơ  花 膜 重 重 裂 繒 聲
Lò chì khói tỏa bụi tơ bời bời  鉛 爐 片 片 飛 煙 縷
Răng nghiến thịt, mồ hôi như mỡ  牙 咬 肉 顫 汗 如 油
Dập xằng xiên, hầu dễ đã xong  亂 搗 胡 抽 做 不 住
Váy xiêm chốc điểm giọt hồng  須 臾 裙 帶 落 新 紅
Phút xuân lặng đếm lậu rồng mấy phen  暗 點 春 籌 翻 幾 度
Hai lỗ thiếp như vòng vấn vít  妾 身 兩 孔 似 連 環
Thoắt thông thành một hốc rất to  瞬 息 通 成 一 大 圈
Hãi trông xiêm áo giày vò  捲 襦 點 閱 忽 驚 訝
Nhuốc nhơ chẳng đáng vất cho nửa hào  頏 摩 不 值 半 文 錢
Nay đen xạm còn đâu trinh bạch  黑 暗 既 非 前 度 白
Trước tròn vo giờ đã héo hon  縈 紆 又 改 舊 時 圓
Gọi hầu bưng chậu mang lên  呼 鬟 拿 甕 尿 一 尿
Đái ra như thể suối tuôn ào ào  尿 水 之 聲 如 飛 泉 ,  飛 泉 瀲 灧 去 不 返
Gió bức xối cánh đào lả tả  陽 風 打 落 桃 花 片
Đào tơ ghê cơn gió dữ dằn  桃 花 嬌 怯 不 勝 風
Gió gom hồn vía nhọc nhằn  風 斂 花 魂 猶 覺 倦
Mảnh mai vóc liễu ba phân hao gày  盈 盈 柳 骨 瘦 三 分
Xống nhàu nhĩ, dão tày một nửa  褶 褶 湘 羅 寬 一 半
Việc phòng trung dẫu chửa chết người  底 事 雖 然 不 殺 人
Mây mưa sớm tối thuộc bài  暮 雨 朝 雲 安 熟 爛
Cơn đau kỳ lạ hóa vui lạ kỳ  自 從 奇 苦 得 奇 歡
Cuộc vui dứt, quên đi nỗi cực  歡 後 卻 忘 舊 苦 艱
Chẳng còn lo, chài nhọc mái chèo  不 患 漁 翁 揮 棹 澀
Bãi bằng dồn dập sóng đào  溶 溶 桃 浪 漲  平 灘
Trái nâng phải bóp, lần vào nhị hoa  左 掬 右 摸 探 花 髓
Bướm mặc oanh, đưa thoi không dứt  鶯 不 停 梭 蹀 不 攔
Ngọc ngứa hương, đâu biết thẹn thùng  玉 癢 香 搔 失 害 羞
Trên ôm dưới ấp một vòng  上 摟 下 扭 圓 團 團
Miên man tình gió, nóng lòng dạ hoa  風 情 蕩 漾 花 心 急
Sợ chúa xuân rời ra khoảnh khắc  恐 放 東 君 頃 刻 間
Kẻ man di cũng thực hứng tình  蠻 人 老 實 多 高 興
Dùi đâm nào biết nhẹ nhàng  不 會 輕 挑 只 會 鑽
Phù sinh mây khách qua đường mà thôi  浮 世 青 雲 如 過 客
Giấc xuân ấy, cả đời mấy độ  一 生 幾 度 托 春 眠
Thú gối chăn bất kể Kinh – Man  衾 裯 樂 處 無 夷 夏
Danh suông lỡ phận hồng nhan  痴 徇 空 名 誤 玉 顔
Trông phường hoa điếm phấn son nhục nhằn  不 見錦 機 脂 粉 隊
Lính Tây đi, mấy thằng trở lại  西 兵 去 後 幾 人 還
Bớ ai ơi nhắn với chị em  誰 將 此 為語 姊 妹
Lấy chồng, sớm lấy Tây Sơn!  嫁 郎及 早 嫁 西 山

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

Ve và nhặng.





VŨ TRÙNG GIÁC THẮNG KÝ
Lập trai Phạm Quý Thích di cảo


Dịch ngày 8.10.2012


Xã Như Phượng, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc cuối thời Lê có thư sinh tên Nguyễn Gia Du, thời trẻ chăm học, bỗng dưng gặp biến, lưu lạc quê người, dựng nhà ở Nội Nghiệp, Yên Phong, sống bằng nghề dạy học. Du tính yêu ngâm vịnh, lần nào cũng tự so với Phục Ba, Gia Cát mà người đời chẳng có ai hay. Một hôm, rảnh rang vãn chùa An Lạc, trên đường gặp một dị nhân, tặng cho mấy hạt kim đan. Thư sinh vừa ăn, bất chợt thần thái nhẹ bẫng, gan ruột lâng lâng, phàm động tĩnh của côn trùng, thanh âm của muông thú, đều có thể dùng tâm thần lĩnh hội.


Có một hôm, đương buổi cuối thu đầu đông, móc tía giăng trời, gió vàng hiu hắt, thư sinh trộm rảnh, buồn tựa án song, đưa mắt nhìn xa, bỗng thấy một vật, dáng vóc khô gày, từ phía Đông xà xà bay lại, đậu trên cây hòe cổ ngoài tường, trông kỹ thì ra là ve sầu vậy. Lại thấy một vật, đỏ đầu xanh cánh, từ phía Tây sang, cũng bay tới đậu chỗ đó, là nhặng xanh vậy.Thư sinh dõi mắt nhìn, thấy nhặng xanh dang cánh, dáng như gây gổ, quát về phía ve:
-Ngươi là ai mà dám đậu cùng cây với ta?
Ve sầu dựng đứng râu ria, trừng mắt nghiêm giọng:
-Ta là ve sầu cư sĩ, vâng mệnh thiên đế, ban lệnh mùa hè, nắm giữ thời tiết, để canh nông đúng vụ, ngang dọc gầm trời, tiếng tăm lừng lẫy. Bỗng dưng gặp tiết đông hàn, phải tới ấp lá. Ngươi là ai mà dám nói năng như vậy?
Nhặng nói:
-Ta là nhặng xanh tài tử, tai mắt nhanh nhạy, nói năng hơn người, vốn ở hàn môn, tiến thân phú quý. Thức uống đồ ăn thừa thãi, đã có vua ban; công danh của nả xênh xang, đều nhờ trời cấp. Bụng nhồi mỹ vị, miệng đượm mùi ngon. Vậy nên cái đầu thì đỏ, cái cánh thì xanh. Dáng vóc đầy đặn như vầy, lông cánh nở nang đến vậy. Phú quý phong lưu, cứ ngỡ ba đời may mắn. Ngươi gày gò đen nhẻm, há sánh cùng ta được ư?
Ve nói:
-Hừ! Ta nói cho người biết! Xét đạo thánh nhân, chuộng chính trực không chuộng may rủi, nếp nho quân tử, lo đạo lớn chẳng lo nghèo nàn. Vậy nên Bá Di khinh thóc nhà Chu, bữa nuốt rau vi cũng chịu, Trọng Tử từ ngôi khanh tướng, ngày nương vườn ruộng làm vui. Há chẳng phải giàu sang bất nghĩa, chỉ là mây nổi trước ta sao! Nhặng xanh ngươi tham lam vô độ, xu phụ thành bầy. Lượn lờ chợ cá, chẳng thấy tanh hôi, bắng xắng bếp nồi, không hiềm dơ bẩn. Hạ lưu Tuy Thủy, người đi đường còn phải che mặt, ngươi lại lấy làm chỗ ăn chơi. Ngoài thành Tân An, người bây giờ thường vẫn đau lòng, ngươi lại lấy làm nơi vui thú. Phàm là bổng lộc của ngươi, đều là máu dân mỡ dân cả, vậy nên ngươi mới thân béo bụng tròn, đầu to mắt lớn. Nhưng ngươi không biết liêm sỉ, lại lấy làm vinh dự, đi bất cứ đâu, người đều ghét đuổi, vì ghê tởm ngươi là con vật bẩn thỉu vậy. Đâu giống như ta, tiết tháo băng sương, tâm can sắt đá; nơi ở là cổ thụ, tùng già; thức uống là sương trong, móc ngọt. Ngẫm cái lý tỏ mờ, trời đông giữ tiết, im lặng không lời; vui cái đạo thánh nhân, ngày hạ đọc kinh, đàn ca chẳng dứt. Trên cỗ xe săn, không dùng cung kiếm, ấy trí tuệ vậy. Của cải bất nghĩa, chẳng lấy tơ hào, ấy trong sạch vậy. Không cầu no bụng ở nơi người, ấy liêm khiết vậy. Không hại vật để béo mình, ấy nhân nghĩa vậy. Thân khô gày nhưng được đời trân trọng, lương y thường cất ở trong hòm, gọi là thiền thoái, dùng làm dược liệu. Há chẳng phải thụ bẩm tinh khí đất trời, đáng dùng làm thuốc cứu dân đó ru? Nay ngươi bình phẩm, không xét nguyên ủy trong đục tinh thô, chỉ dựa vào vóc người gày béo, lại vẫn lấy làm luận định được sao!”
Nhặng xanh nghe xong, sắc mặt xám xịt, rũ đầu ủ nuột, thoắt trông về phía Tây bay đi. Trong nháy mắt đã biến mất tăm dạng.


Ôi! Ve là loài vật vô tri, còn biết giữ mình trong sạch, sống theo lễ nghĩa, huống hồ là con người? Kẻ không có khí tiết kia, đêm tối van lơn, ban ngày kênh kiệu, không có mảy may liêm sỉ, tuy mặc áo mũ mà thực là cầm thú, không khác con nhặng xanh, để cho ve sầu thóa mạ! Bậc quân tử ở đời, nếu có thể gìn mình theo đạo, an phận chờ thời, bảo tồn nhân cách, không mưu cầu phú quý để chuốc lấy ô nhục, thì đó thật là cách sống hay trong buổi đất nước tao loạn vậy.